(Khởi nghiệp xanh) Theo các chuyên gia, chuyển đổi xanh và thực hành ESG (môi trường – xã hội – quản trị doanh nghiệp) là con đường không thể khác cho các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng xuất khẩu, thu hút đầu tư, hội nhập kinh tế quốc tế…
“Visa” cho xuất khẩu
Bà Phạm Thị Ngọc Thủy, Giám đốc Văn phòng Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV thuộc Hội đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ), nhấn mạnh rằng hiện nay, các biến đổi khí hậu, xung đột địa chính trị và khủng hoảng năng lượng đang tạo ra áp lực thúc đẩy thế giới chuyển đổi sang “trật tự xanh”.
Các thị trường xuất khẩu hàng hóa chính của Việt Nam đang chuẩn bị cho các quy định cụ thể về sản xuất bền vững và bảo vệ môi trường. Ví dụ, Châu Âu áp dụng kế hoạch hành động CBAM và quy định EUDR về phòng chống phá rừng, trong khi Mỹ đưa ra Dự thảo Luật Cạnh tranh sạch. Các thị trường lớn như Nhật Bản và Hàn Quốc cũng dự kiến áp dụng các cơ chế tương tự.
Sự phát triển của Việt Nam, dựa nhiều vào xuất khẩu, đặc biệt là đối với thị trường Mỹ và Châu Âu, đang phải đối mặt với áp lực từ các quy chuẩn mới này. Áp lực này bao gồm rào cản kỹ thuật, tăng giá thành sản phẩm và giảm tính cạnh tranh, cùng với áp lực từ các doanh nghiệp đầu chuỗi.
Vì vậy, để duy trì thị trường và động lực, việc chuyển đổi sang mô hình kinh doanh xanh là bắt buộc và phải diễn ra nhanh chóng, đặc biệt khi ngày càng có áp lực từ các nhà mua hàng. Bà Thủy khuyến nghị rằng “Nếu chậm trễ, doanh nghiệp có thể mất thị trường rất nhanh chóng, dù đã có sự chuẩn bị tốt ở các thị trường truyền thống. Vì vậy, chuyển đổi sang mô hình kinh doanh xanh không chỉ là bắt buộc mà còn là cơ hội cho các doanh nghiệp.”
Trong bối cảnh này, sau cam kết mạnh mẽ tại COP26, Việt Nam đang tích cực “xanh hóa” nền kinh tế. Các chính sách và thực tiễn mới trong nước, như Dự thảo Nghị định về phí bảo vệ môi trường đối với khí thải và việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 156/2018/NĐ-CP của Chính phủ về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Lâm nghiệp, đặc biệt quan trọng và có tác động lớn đến doanh nghiệp. Điều này bao gồm việc bổ sung dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon và việc ban hành tiêu chí môi trường và xác nhận đối với các dự án được cấp tín dụng xanh và phát hành trái phiếu xanh. Cùng với các quy định về kiểm kê khí nhà kính, các doanh nghiệp không thể chậm trễ trong việc thích nghi với những thay đổi này.
Cứ đi rồi sẽ đến
Theo dự báo của World Bank, Việt Nam đang có nhu cầu tài chính lớn để chuyển đổi nền kinh tế sang mô hình “xanh hơn”, trong đó, khu vực tư nhân được dự báo sẽ chi khoảng 350 tỷ USD.
Thống kê của Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, NHNN, tính đến 30/9/2023, dư nợ cấp tín dụng xanh đạt hơn 564 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 4,4% tổng dư nợ toàn nền kinh tế, trong đó chủ yếu cấp cho năng lượng tái tạo (gần 45%) và nông nghiệp xanh (hơn 30%). Tuy nhiên, việc chưa có cơ sở pháp lý về phân loại xanh và quy trình tiếp cận vốn xanh đã khiến nguồn vốn vào tăng trưởng xanh chưa thu hút được nhiều. Hiện Chính phủ (NHNN) đang dự thảo Nghị định về việc ban hành tiêu chí môi trường và việc xác nhận đối với dự án được cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh; Hoàn thiện cơ sở pháp lý để hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận tài chính xanh nhằm thực hiện quá trình chuyển đổi.
Một khó khăn khác là Việt Nam chưa có sàn giao dịch tín chỉ carbon. Dự kiến sàn giao dịch tín chỉ carbon Việt Nam sẽ vận hành thí điểm vào năm 2025 và chính thức vận hành vào năm 2028, chậm hơn so với nhiều quốc gia trong khu vực.
Khảo sát 2.734 doanh nghiệp vào cuối năm 2023 của Ban IV cho thấy, tuy có nhiều chuyển biến trong chuyển đổi xanh, nhưng vẫn còn nhiều “mảng xám”, khi 64% doanh nghiệp chưa chuẩn bị gì cho giảm phát thải và chuyển đổi xanh; gần 52% cho đánh giá mức độ cần thiết chuyển đổi ở cấp bình thường, không cần thiết và rất không cần thiết. Rất nhiều khó khăn mà doanh nghiệp đang phải đối mặt, trong đó vốn và nhân sự là hai vấn đề nổi bật. Tuy nhiên, có điều đáng mừng là các doanh nghiệp đang nhận thức tốt việc giảm phát thải và chuyển đổi xanh giá trị tăng thêm từ tín chỉ carbon cũng chính là để tối ưu hiệu quả hoạt động của mình.
Câu chuyện mà bà Thủy chia sẻ từ các doanh nghiệp đi đầu trong việc chuyển đổi xanh đang thực chứng điều này. Như Công ty May Hồ Gươm, khi ý thức được sự chuyển động và sức ép mua sắm xanh, đã kiên quyết phấn đấu để đạt được chứng chỉ LEED của Mỹ. Phần thưởng cho những nỗ lực này là trong năm 2023, mặc dù tăng trưởng ngành dệt may trong nước sụt giảm gần 10%, nhưng May Hồ Gươm vẫn tăng trưởng cao. Và hơn thế, khi các nhà mua hàng quốc tế vào tìm kiếm đơn vị gia công sản xuất tại Việt Nam thì May Hồ Gươm luôn trong nhóm đầu danh sách lựa chọn, và lúc đó, thậm chí công ty còn có quyền lựa chọn đối tác.
Thực tế, chuyển đổi xanh và thực hành ESG là một hành trình dài và khó khăn với doanh nghiệp, đòi hỏi nguồn lực lớn. Song doanh nghiệp không thể chờ khi có đủ nguồn lực và nền tảng mới làm. “Trong bối cảnh nhận thức chưa đủ thì rất khó dung hợp chuyển đổi xanh vào chiến lược dài hạn của doanh nghiệp. Khi chưa biết khởi hành từ đâu thì nên bắt đầu bằng các sáng kiến nhỏ. Qua quá trình thực hiện, doanh nghiệp sẽ biết mình ở đâu trong quá trình chuyển đổi, cũng như đúc rút được kinh nghiệm trong triển khai để từ đó có những bước đi xa hơn”, bà Thủy khuyến nghị và cho biết, đây cũng là tư vấn của các chuyên gia quốc tế cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam.
Các chuyên gia cũng chỉ ra một con đường giúp các doanh nghiệp chuyển đổi xanh, thực hành ESG hiệu quả là tiếp cận các dự án và cuộc thi về các lĩnh vực này. Bà Trần Thị Thu Phương, Tổng Giám đốc